Các anh chị ơi giúp em với ! Thứ 4 em cần rồi ! Gấp lắm !Có ý kiến cho rằng "Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn". Ý Kiến của anh chị như thế nào ?Em xin Chân thành cảm ơn các anh chị trước .
Bạn đang xem: Áng thiên cổ hùng văn là gì
Last edited by a moderator: 15 Tháng hai 2015
Đề này bn cần làm 1 số ý như sau: 1. Giải thích: thế nào là" thiên cố hùng văn" ? - Là áng văn hung ftráng cả nghìn đời còn lưu truyền - Vì sao gọi như thế? + Nội dung thể hiện 1 tinh thần yêu nước mãnh liệt, tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, khsi thế hào hùng, lòng căm thù giặc sôi sục. Bài cáo đã ghi lại một thời kì đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trogn cuộc k/c chống Minh vôói những chiến thuật chiến lước hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lạinhững trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiêp sợ, dẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã. Bài cáo còn viết với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như bão dông, phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể hiện dc tất cả cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân LS thắng trận giòn giã + Bài cáo mãi là âm vang hào hùng trên non sông đất Việt vì đã ghi lại dc ý chí, khát vọng chiến thắng, hoà bình, độc lập của toan fdân , vì đãkhẳng định dc quyền tự chủ và ý chí chiên sđấu đến cùng để giành lại quyên ftự chủ của dân tộc tr"c mọi kẻ thù. Bài cáo còn nêu cao tư tưởng nhân nghĩa để khẳng định đạo lí ngàn đời của nhân dân VN. Sự bất hủ của bài cáo còn là do thiên tài nghệ thuật của NT + Sự tồn tại vượt time của bài cáo còncó sự góp phần của dịch giả. Bài dich chữ Nôm quả là 1 công trình dịch thuật xuất sắc 2. Chứng mĩnh: - BNĐCm, một bản hùng ca xuất sắc về nội dung và nghệ thuật: + Ca ngợi đất nước và dân tộc với lối văn trong sáng tràn đầy sức mạnh của lòng tin và long ftự hào +Nỗi niềm trăn trỏ lo âu vận mệnh của đất nước>>tình yêu nước său sắc. +Cảm xúc dạt dào kh icó cơ hội khởi nghĩa, khi tập hợp lực lượng nhân dân, khi lực lượng nghĩa quân đã phát triển: "Nhân dân bốn cõi....phấp phới" + Chiến lược chiến thuật tài tình và tchiến thắng vang dội là trọng tâm làm nên cảm xúc vừa mãnh liệt vừa trữ tình cho áng văn bất hủ này: " thế trân....chống mạnh.." " đem đại nghĩa...." +Kết thúc bài cáo là những lời ca trang trọng và tươi vui nhất là niêm fhạnh phúc dào dạt 3. Nhận xét chung : Tư tưởng nhân nghĩa là nguồn gốc của giá trị văn chương, đây chính là cái bệ phóng để đưa tác phẩm từ quá khứ vào tương lai. Nghệ thuật cấu trúc văn bản và dùng từ là dôi cánh để nang cao tác phẩm hơn nữa.
Phần chứng minh bn tự thêm dẫn chứng vào nhé!Chúc bn làm bài tốt!
Last edited by a moderator: 7 Tháng tư 2009
Áng thiên cổ hùng văn là bài văn hùng hồn có từ ngàn xưa.Thiên cồ hùng văn phải hiểu là cái chất hủng cùa bài văn thể hiện được sức mạnh tiềm tàng truyền thống yêu nước của dân tộc VN. Ví dụ như bài thơ Sông NHƯ NGUYỆT của Lý Thường Kiệt:Bài Binh Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi....

Tải app VietJack. Xem lời giải nhanh hơn!
Đề bài: Dàn ý Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi là áng thiên cổ hùng văn.
Bài giảng: Đại cáo bình ngô - Phần 2: Tác phẩm - Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)
Dàn ý Chứng minh Đại cáo bình Ngô là áng thiên cổ hùng văn
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi: Là anh hùng dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất.
- Khái quát về tác phẩm: Hoàn cảnh ra đời, nhận xét chung về bài cáo - là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.
II. Thân bài
1.Giải thích thế nào là áng thiên cổ hùng văn
- Là áng văn hùng tráng được lưu truyền lại đến muôn đời
- Trước Bình Ngô đại cáo, đã có những áng văn chính luận xuất sắc như “Chiếu dời đô”, “Hịch tướng sĩ”, nhưng đến Bình Ngô đại cáo tính chất hùng tráng được thể hiện sâu sắc hơn cả bởi giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật mà nó thể hiện
2.Chứng minh Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn
a.Nhan đề.
- Đại cáo là thể văn chính luận được vua chúa, thủ lĩnh dùng để công bố, tuyên ngôn những sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết bằng những lời lẽ đanh thép, lí luận sắc bén, kết cấu chặt chẽ.
- Bình Ngô: Dẹp yên giặc Minh
- Đại cáo bình Ngô là bài cáo có ý nghĩa trọng đại của quốc gia công bố rộng khắp về việc đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập, chủ quyền của dân tộc.
→Nhan đề tác phẩm gợi ý nghĩa trang trọng, thiêng liêng
b.Quy mô, dung lượng
- Đây là áng văn có quy mô lớn với dung lượng dài gồm 4 phần được phân chia rõ ràng, cụ thể.
- Mỗi phần lại mang những nội dung trọng tâm cụ thể: phần 1 – luận đề chính nghĩa, phần 2 – vạch rõ tội ác kẻ thù, phần 3 – quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa, phần 4 – tuyên bố chiến quả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa
→Trước Đại cáo bình Ngô chưa có một áng văn chính luận nào có quy mô lớn như thế.
c.Nội dung, tư tưởng.
- Tư tưởng lớn lao xuyên suốt chiều dài tác phẩm là tư tưởng “nhân nghĩa”. Tư tưởng vừa có sự kế thừa của Nho giáo, vừa có sự mở rộng và sáng tạo với hai nội dung “yên dân” và “trừ bạo”. Từ trước đến nay, chưa một ai phát hiện và phát biểu một cách hùng hồn và rõ ràng tư tưởng này như Nguyễn Trãi.
- Lời tuyên bố hùng hồn, đanh thép về độc lập, chủ quyền của dân tộc qua rất nhiều phương diện (nền văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt)
+ Gọi vua Đại Việt là “Đế’, đặt các triều đại của Đại Việt sánh ngang với các triều đại của Trung Hoa thể hiện niềm tự hào tự tôn dân tộc
+ So với “Nam quốc sơn hà” bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, đại cáo bình Ngô vừa có sự kế thừa, vừa có sự mở rộng: kế thừa các yếu tố về phong vựa, lãnh thổ, cách gọi các vua nước Việt là “đế”, mở rộng, phát triển ở các yếu tố nền văn hiến, phong tục, lịch sử, hào kiệt và tất cả những yếu tố này không cần đến sự định đoạt của “thiên thư” mà do chính con người thiệt lập.
→Là bản tuyên ngôn hùng tráng và đầy đủ nhất về độc lập và chủ quyền dân tộc
- Thái độ căm phẫn trước những tội ác dã man của kẻ thù.
+ Chúng dùng luận điệu bịp bợm để cướp nước, khủng bố sát hại người dân vô tội, bóc lột thuế khóa vơ vét sản vật, phá hoại môi trường tiêu diệt sự sống, phá hoại sản xuất bóc lột sức lao động.
+ Nỗi đau đớn, xót xa, uất hận, căm tức của nhân dân trước những tội ác ấy
→Là bản cáo trạng hùng hồn, đanh thép về tội ác kẻ thù.
- Tình yêu đất nước và một lòng chiến đấu chống giặc Minh của Lê Lợi, của nghĩa quân Lam Sơn và nhân dân
+ Lê Lợi là người anh hùng áo vải, có lí tưởng, hoài bão lớn lao và là linh hồn của cuộc chiến.
+ Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầy gian khổ mà hào hùng, vẻ vang của dân tộc, khí thế như vũ bão và cách ứng xử đầy nhân văn của dân tộc.
+ Sự thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề của giặc
→Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc
d.Đặc sắc nghệ thuật
- Lập luận chặt chẽ, đanh thép đầy thuyết phục: Đi từ cơ sở lí luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về độc lập chủ quyền soi chiếu vào thực tiễn sự bất nhân, tàn ác của giặc Minh và cuộc khởi nghĩa gian khổ mà hào hùng của dân tộc và cuối cùng đi đến kết luận địch phi nghĩa, ta chính nghĩa.
- Các lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục: Chứng minh về chủ quyền độc lập của dân tộc bằng những dẫn chứng thuyết phục (văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, hào kiệt), nói về tội ác của giặc (tội ác khủng bố, sát hai, hủy diệt môi trường, phá hoại sản xuất, bóc lột sức lao động,...),...
- Giọng điệu hào hùng, đanh thép, hùng tráng.
- Sử dụng cách nói đầy hình ảnh: Nướng dân đen, vùi con đỏ, Trúc lam sơn không ghi hết tội, đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông,...
- Câu văn ngắn dài, biến hóa linh hoạt khi thì đanh thép luận tội lúc lại hào hùng ngợi ca, khẳng định dứt khoát, quyết liệt
- Sử dụng các thủ pháp nghệ thuật liệt kê, phóng đại, đối lập để thể hiện những lập trường, quan điểm của tác giả.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vị trí của tác phẩm Đại cáo bình Ngô
- Thể hiện tầm vóc và vị trí của Nguyễn Trãi qua tác phẩm.
Chứng minh Đại cáo bình Ngô là áng thiên cổ hùng văn - mẫu 1
Nguyễn Trãi – anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời là nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Cuộc đời ông gắn liền với những sự kiện trọng đại như khởi nghĩa Lam Sơn, vụ án "Lệ Chi viên" đến nay vẫn còn là một uẩn khúc lớn trong lịch sử,… Đặc biệt, trong sự nghiệp sáng tác, ông đã để lại một tác phẩm được mệnh danh là "Bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai" của dân tộc: Bình Ngô Đại cáo Có ý kiến cho rằng, đây là một áng "thiên cổ hùng văn", khẳng định chân lý và sự thật hiển nhiên về vấn đề chủ quyền nước ta lúc bấy giờ bằng những lý lẽ và dẫn chứng vô cùng chặt chẽ và đầy tính thuyết phục.
Ra đời năm 1427, Bình Ngô Đại cáo là bài báo cáo được viết bởi Nguyễn Trãi, thay lời Bình Định vương Lê Lợi, tuyên cáo nhằm chấm dứt cuộc kháng chiến chống nhà Minh, giành độc lập cho nước Đại Việt. "Thiên cổ hùng văn" là áng văn chương hùng tráng lưu truyền muôn đời và có giá trị lịch sử tối quan trọng. Trong văn học Trung đại, đã có những áng văn cũng được viết bằng thể loại chính luận với mục đích trình tâu, báo cáo. Cho đến "Bình ngô Đại cáo", được đánh giá là mang tính hùng tráng ở cả giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật. Sử dụng "cáo" – thể loại văn chương chính luận được dùng trong triều đình, mục đích để vua chúa công bố những quyết định, sự kiện trọng đại với toàn thể nhân dân, đòi hỏi lời lẽ sắc bén, dẫn chứng đầy đủ, hợp tình hợp lý, giàu sức thuyết phục. Trên cơ sở đó, xét về thực tế và lý thuyết, "Bình Ngô Đại cáo đáp ứng đủ tất cả mọi mặt khi có ý nghĩa mang tầm quốc gia, khẳng định chủ quyền của toàn dân tộc, chính thức đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi Đại Việt. "Bình Ngô" nghĩa là đuổi hết được giặc Trung Quốc, lúc bấy giờ là thời nhà Minh, sự kiện này được thông cáo cho toàn thể dân chúng biết, đồng thời chính thức xác nhận "Đại Việt" là quốc gia tự lực tự quyền. Như vậy, xét về dung lượng, đây là áng văn chính luận có quy mô lớn nhất từ trước đến thời Lê, xét về nội dung, đây là dấu mốc lịch sử quan trọng bậc nhất, xứng đáng là một áng "thiên cổ hùng văn", áng văn chương oai hùng được trời đất chứng giám, lưu truyền cho con cháu muôn đời.
Bình Ngô Đại cáo là áng "thiên cổ hùng văn" về mặt tư tưởng. Tư tưởng nhân nghĩa luôn là nguồn cảm hứng cũng như kim chỉ nam vững chắc trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi. Thơ văn của ông luôn có tính nhân đạo, xét đến cùng cũng là để phục vụ nhân dân, nêu cao tinh thần con người, khát khao được dẹp loạn, bình trị thiên hạ, nhân dân được sống no đủ, yên bình:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nếu các bậc tiền bối đều lấy vua chúa, tướng lĩnh làm cốt lõi của những vấn đề chính trị, triều đình thì Nguyễn Trãi đã nhìn nhận ra vấn đề một cách khái quát, dám lên tiếng một cách dõng dạc và khảng khái, khẳng định giá trị của nhân dân trong công cuộc bình thiên hạ. "Việc nhân nghĩa" nằm ở chỗ nhân dân được thuận hòa, ấm no, nhân dân sống yên ổn ắt sẽ phát triển kinh tế, xã hội,… Đề cao giá trị nhân dân, giá trị con người, Nguyễn Trãi thể hiện tinh thần nhân nghĩa, tư tưởng tiến bộ, cái nhìn khách quan, nhìn xa trông rộng, hướng tới nhân dân để xây dựng cốt lõi chính quyền, khẳng định tầm quan trọng của cộng đồng với sự tồn vong của dân tộc.
Không phải ngẫu nhiên mà "Bình Ngô Đại cáo" được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Nguyễn Trãi đã tuyên bố một cách hùng hồn về độc lập và chủ quyền dân tộc trên mọi khía cạnh, từ lãnh thổ, văn hiến, phong tục tập quán, bề dày lịch sử,…
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Nguyễn Trãi gọi nước ta là "nước Đại Việt" để khẳng định chủ quyền dân tộc. Đối lập với âm mưu muốn biến nước ta trở thành một quận của quân Minh, ông dõng dạc tuyên bố Đại Việt là một "nước", một quốc gia độc lập, có "nền văn hiến đã lâu", có lãnh thổ được xác định "núi sông bờ cõi đã chia", có "phong tục Bắc Nam",… Đặc biệt, tác giả gọi những bậc vua chúa của Đại Việt là "Đế", sáng ngang với các triều đại của đế quốc Trung Hoa, thể hiện niềm tự hào, tự tôn của dân tộc. Tác giả đặt Đại Việt ngang hàng với Trung Quốc vừa là lời khẳng định rắn chắc về bờ cõi bất khả xâm phạm, vừa khéo léo đả kích, lên án sự xâm lược vô căn cứ của giặc phương Bắc. Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi tuyên bố chính thức độc lập được xác lập, đồng thời nói lên tâm trạng của nhân dân, niềm tự hào của quần chúng khi trở thành công dân của một nước độc lập. Tất cả các yếu tố, từ chủ quyền, tập quán, bản sắc dân tộc, những anh hùng hào kiệt,… Đại Việt đều hoàn toàn có thể sánh vai với nước bạn Trung Quốc, không có cớ gì Trung Quốc có quyền xâm lăng và đô hộ nước ta.
Như vậy, "Bình Ngô Đại cáo" là văn kiện lịch sử chính thức khai sinh ra nước Đại Việt độc lập, có giá trị ngang với bản Tuyên ngôn độc lập ngày nay. Tính "thiên cổ hùng ca" thể hiện ở giọng điệu đanh thép và lời khẳng định khảng khái, cơ sở lập luận, dẫn chứng đầy đủ, quyết định một sự kiện trọng đại của lịch sử, truyền đời cho con cháu đời sau về công dựng nước và giữ nước của thế hệ cha ông
"Bình Ngô Đại cáo" còn là lời tố cáo đanh thép về những tội ác tày trời của kẻ thù với toàn thể dân tộc ta, qua đó, tác giả ca ngợi vị lãnh tụ Lê Lợi anh minh, dũng cảm, kêu gọi nhân dân đoàn kết, hiếu trung với tổ quốc. Trước những hành động lừa lọc, nhơ bẩn mà quân Minh đã làm, thái độ của Nguyễn Trãi tỏ rõ sự căm thù, phẫn uất.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
.....
Ai bảo thần nhân chịu được?
Tác giả không ngại ngần liệt kê những tội ác của quân thù "bán nước cầu vinh", "nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn", " vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ", "dối trời lừa dân", ép nhân dân xuống biển "mò ngọc", bắt sản vật quý hiếm bất chấp hiểm nguy đến cả tính mạng, "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ", giết chóc không ghê tay, gây bao cảnh nhà tan cửa nát, trẻ mất cha, mẹ mất con, vợ mất chồng,… Những tội ác nhơ nhuốc ấy của quân thù, chẳng có nước sông nào gột rửa nổi, lòng dân ai oán ngút trời. Thực tại đất nước lúc đó lâm vào cảnh khốn cùng, kinh tế kiệt quệ, quân thù ngang nhiên vơ vét, sát hại người dân, tàn phá tài nguyên thiên nhiên, môi trường. "trúc Nam Sơn không ghi hết tội", " nước Đông Hải không rửa sạch mùi", Nguyễn Trãi thể hiện thái độ ghê tởm, lên án gay gắt những hành động man rợ, tàn ác giặc Minh đã vơ vét nước ta. Đó chính là động lực, là cơ sở gợi lên sự căm thù của nhân dân, dấy lên ngọn lửa yêu nước, sẵn sàng đứng lên đánh đuổi quân xâm lược.
"Bình Ngô Đại cáo" trở thành một bản hùng ca oai phong, lẫm liệt với những chiến công hiển hách mà quân và dân ta đã làm được. Trước hết, tác giả nêu rõ những sự thất bại ê chề, nhục nhã của giặc khi lăm le xâm lược lãnh thổ Đại Việt:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cứ còn ghi
Hàng loạt những tội ác gắn với những cái tên cầm đầu quân xâm lược như Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã cùng với những địa điểm, cột mốc đánh dấu như Cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng. Liệt kê như vậy cốt để lên án sự bất nhân, vô cớ xâm lược từ phía Trung Quốc, gợi lại những nỗi đau thương mất mát trong lòng người dân để từ đó răn dạy, cảnh tỉnh nhân dân luôn một lòng đoàn kết chiến đấu chống giặc, trung thành với đất nước, với triều đình. Tác giả cũng khẳng định sự tự hào với những chiến công hiển hách của người anh hùng Lê Lợi, người anh hùng áo vải chiến đấu quên thân mình vì độc lập, tự do của dân tộc. Lê Lợi cũng là người đã khởi xướng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng vang dội. Ca ngợi Lê Lợi bằng những mĩ từ như "tuấn kiệt", "sao buổi sớm" với tấm lòng cứu nước mãnh liệt, "đăm đăm muốn tiến về Đông" để tìm ra con đường cứu giúp dân chúng, thay đổi vận mệnh dân tộc. Nhắc đến Lê Lợi là nhắc đến vị lãnh đạo hoài bão lớn lao, khát khao được trừ ác giúp dân, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đầy thiếu thống, vất vả nhưng cuối cùng vẫn giành thắng lợi vẻ vang. Thậm chí, khi quân Minh thua cuộc rút về nước, Lê Lợi còn cấp cho ngựa đi đường bộ, cấp thuyền vượt biển về nước, thể hiện tấm lòng nhân văn sâu sắc, yêu thương con người, cầu tiến, cầu hòa bình, êm ấm. Lê Lợi chính là hình tượng người anh hùng của nhân dân, kết tinh bởi tất cả những nhân cách tốt đẹp và ý chí oai hùng của người dân Đại Việt.
Với những dẫn chứng xác thực, cụ thể, nêu thẳng mặt, vạch thẳng tên cùng lập luận chặt chẽ, lớp lang cùng cấu trúc bốn phần lần lượt, khẳng định nhân nghĩa, độc lập dân tộc Đại Việt, tố cáo tội ác quân thù và tuyên bố độc lập nước nhà qua chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa, "Bình Ngô Đại cáo" xứng đáng trở thành bản "Thiên cổ hùng ca". Xét trên phương diện lịch sử, đây là bản ghi chép sử bằng văn học đầy đủ, thuyết phục, thuật lại thực tiễn một cách khách quan, vạch trần bộ mặt giả dối, ác độc của giặc Minh. Về phương diện văn học, đây là áng văn chính luận được tổ chức hợp lý với hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng đủ đầy, ngắn gọn, hàm súc. Các thủ pháp nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn và linh hoạt đã tạo nên âm hưởng hoành tráng, hào hùng, đúng phong thái của một bản "đại cáo" được lưu truyền cho muôn đời sau.
"Bình Ngô Đại cáo" đã và đang giữ được giá trị và tầm ảnh hưởng qua các thế kỉ, khẳng định tài năng và ngòi bút vượt trội của Nguyễn Trãi. Áng "Thiên cổ hùng văn" quyết định của cả một quốc gia, dân tộc, được đất trời, quần chúng chứng giám, là niềm tự hào của mọi thế hệ người dân Đại Việt về chiến công lừng lẫy, đánh đuổi ngoại xâm. Đây xứng đáng được coi là tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của văn học thời kì Trung Đại.
Chứng minh Đại cáo bình Ngô là áng thiên cổ hùng văn - mẫu 2
Nhắc đến những bản tuyên ngôn độc lập đầy hào hùng của dân tộc, chúng ta không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Tác phẩm không chỉ được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc mà còn là áng thiên cổ hùng văn vô cùng đặc sắc, giàu giá trị trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng.
Trước hết, ta cần hiểu "thiên cổ hùng văn" là những bài văn cổ mang âm điệu hùng tráng, hào hùng có nội dung viết về những vấn đề lớn trong lịch sử dân tộc đã được lưu truyền từ ngàn đời nay. Nói Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn bởi nội dung bài cáo là bản tổng kết, bố cáo thiên hạ về chiến thắng của vua tôi nhà Lê trước giặc Minh tàn ác, lời khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền của quân dân ta trước kẻ thù xâm lăng. Không chỉ vậy, Đại cáo bình Ngô là áng văn được kết tinh dưới ngòi bút chính luận trữ tình của Nguyễn Trãi với lời văn biền ngẫu cùng sự thay đổi giọng điệu linh hoạt, các biện pháp tu từ nghệ thuật và hệ thống từ ngữ được chọn lọc vô cùng nhuần nhuyễn,... đã tạo nên vẻ trầm hùng trong cách thể hiện của bài cáo.
Thật vậy, bài Bình Ngô đại cáo chính là bài văn tổng kết lại một cách ngắn gọn nhất cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do chủ tướng Lê Lợi lãnh đạo, xuyên suốt tác phẩm là niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc. Đầu tiên, Bình Ngô đại cáo đã khẳng định nhân nghĩa chính là lí tưởng xuyên suốt cuộc khởi nghĩa và lời khẳng định Việt Nam là dân tộc có nền văn hiến lâu đời:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Xem thêm: Luyện Thi Môn Toán Vào Lớp 10 Theo Chuyên Đề Ôn Thi Vào 10 Môn Toán
Mỗi câu thơ vang lên đều ẩn chứa trong đó niềm tự hào, lời khẳng định chắc nịch về tư tưởng nhân nghĩa gắn với việc yên dân trừ bạo. Bên cạnh việc khẳng định nhân nghĩa chính là mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân, vì nhân dân, tác giả còn khẳng định các yếu tố xác định chủ quyền dân tộc: Nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, triều đại riêng và "hào kiệt đời nào cũng có". Nguyễn Trãi còn đặt Đại Việt trong thế đối sánh ngang hàng với các quốc gia phong kiến lớn ở phương Bắc. Điều này cũng đã thể hiện sự tự ý thức về tồn tại độc lập, chủ quyền của dân tộc vừa thể hiện niềm tự hào đối với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nhân dân.
Tiếp sau những lời văn chứa chan niềm xúc động, tự hào trước trang lịch sử vẻ vang của dân tộc là lời tố cáo đầy đanh thép của tác giả trước tội ác của giặc Minh: