Phân tích bạn dạng cáo trạng tội ác hiểm giặc Minh trong sản phẩm Bình Ngô đại cáo. Có thể nói đoạn 2 sản phẩm Bình Ngô đại cáo chính là lời cáo giác sắt đá của tác giả, tác giả đã chỉ ra những tội ác hiểm của giặc Minh đối với những người dân không có tội. Sau đây là dàn ý phân tách tội ác hiểm của giặc Minh, các bài văn mẫu cảm nhận của em về tội ác hiểm của giặc Minh, phân tách tội ác hiểm của giặc Minh siêu hay sẽ là tài liệu tham khảo có ích cho các game thủ học trò khi làm bài viết về sản phẩm Bình ngô đại cáo. Hãy cùng tham khảo tội ác của giặc minh trong bình ngô đại cáo mới nhất dưới đây .

Bạn đang xem: Phân tích bản cáo trạng tội ác của giặc minh

Nào hãy tham khảo cùng với các AD của nofxfans.com nhé !

Video phân tích tội ác của giặc minh

Dàn ý Phân tích tội ác hiểm của giặc Minh

Dưới đây là dàn ý cảm nhận của em về tội ác của giặc minh :

A. Mở bài:

Giới thiệu nói chung tác giả, sản phẩm Đại cáo bình Ngô và nội dung đoạn trích.

B. Thân bài:

Tác giả bóc trần tội ác hiểm của giặc Minh với một lớp lang logic (tác giả chỉ ra những tội ác nào của giặc minh)

– Tác giả chỉ rõ thủ đoạn xâm lăng của giặc Minh

+ Phanh phui luận điệu “phù Trần diệt Đại dương” của giặc Minh (việc nhà Đại dương cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân để giặc Minh thừa cơ gây họa, mượn gió bẻ măng)

+ Thủ đoạn muốn kiêm tính nước nhà ta vốn đã có sẵn, có từ lâu.

– Tác giả bóc trần những chủ trương thống trị phản nhân đạo của giặc Minh

+ Thu thuế khóa nặng nài.

+ Vơ vét sản vật, bắt chim trả

+ Ép người làm những việc nguy khốn (dòng lưng mò ngọc, đãi cát tìm quà,…).

– Tác giả cáo giác khỏe khoắn những hành động tội ác hiểm của giặc.

+ Phá hủy cuộc sống nhân loại bằng hành động diệt chủng, thảm sát người dân không có tội (nướng thứ dân, vùi con đỏ,…)

+ Phá hủy cả môi trường sống (Tàn hại cả giống sâu bọ cây xanh)

=> Đây là bạn dạng cáo trạng sắt đá về tội ác hiểm của giặc Minh

C. Kết bài:

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, nêu chủ đề của đoạn trích.

*

Dưới đây là hướng dẫn phân tích tội ác của giặc minh trong bình ngô đại cáo với các mẫu !

2. Phân tích Bạn dạng cáo trạng tội ác hiểm của giặc Minh cụ thể

Nguyễn Trãi là một trong ba danh nhân bản hóa của dân tộc được UNESCO xác nhận, song song là nhà quân sự lỗi lạc, nhà bốn tưởng chính trị kiệt xuất của Việt Nam. Ông hình thành và phệ lên trong bối cảnh nước nhà rối ren, binh đao – nhà Trần suy yếu, nhà Đại dương nhiễu nhương, lại phái quân cuồng Minh xâm lăng, tình cảnh ấy càng thổi bùng lên ý thức yêu nước vốn đã thấm nhuần trong bốn tưởng truyền thống khởi hành từ dòng họ. Sự góp sức của Nguyễn Trãi kếch xù khôn tả, không những là mưu sĩ với thần cơ diệu toán của khởi nghĩa Lam Sơn, ngòi bút của ông cũng góp phần cần thiết vào sự nghiệp tấn công đuổi giặc ngoại xâm, đem lại thanh bình cho tổ quốc, tiêu biểu là nhị sản phẩm “Quân trung từ mệnh tập” và “Đại cáo bình Ngô”. Khác lạ, sản phẩm “Đại cáo bình Ngô” được xem như “bạn dạng tuyên ngôn chủ quyền thứ nhị” của dân tộc có giá trị cả về mặt chính trị, lịch sử lẫn văn chương. Không những là áng thiên cổ hùng văn về bốn tưởng tự chủ tự cường của dân tộc nhưng còn là bạn dạng cáo trạng luận tội giặc Minh xâm lăng, chỉ rõ sự độc ác hiểm dơ bẩn bẩn của chúng:

“…Độc ác hiểm thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ dáy bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch sẽ mùi…”

Đoạn nhị của sản phẩm với những lí luận nhan sắc sảo, sắt đá, bằng chứng chính xác, đã vạch mặt bầy ngoại xâm với âm mưu, âm mưu dơ bẩn bẩn và sự hung tàn, độc ác hiểm của chúng.

Bằng giải pháp cường điệu, Nguyễn Trãi đã chỉ rõ những điều bại hoại nhân ngãi, luân lí nhưng giặc Minh đã làm với dân tộc ta qua hình tượng “Độc ác hiểm thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội” và “Dơ dáy bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch sẽ mùi”. Thực vậy, tội ác hiểm chúng gây ra nhiều không kể xiết tới nỗi khắc cốt ghi tâm chúng lên thân trúc Nam Sơn cũng chẳng hết, hình tượng này cho thấy sự căm thù lên tới tột đỉnh của quần chúng đối với sự bạo ngược của quân xâm lăng. Chẳng những quá chừng hung tàn, giặc Minh còn thi hành những chế độ khôn xiết dơ bẩn bẩn, đê mạt và xảo quyệt nhằm bẻ gãy ý chí dân tộc, ý thức chống chọi và thủ đoạn biến nước ta thành quận huyện, đồng hóa dân tộc ta thành người Hán và lâu dài xóa sổ người Việt khỏi cõi trời đất. Chính do lẽ ấy nhưng tác giả Nguyễn Trãi đã dành hẳn một đa phần trong sản phẩm để đưa ra những lí lẽ, chứng dẫn hùng hồn nhằm luận tội bầy giặc hung tàn và quỷ quyệt.

Chính sử Việt Nam chép rất rõ về những chế độ thống trị cực kì hiểm sâu trong ngót nhị mươi năm đô hộ nước ta, song đa số đều soạn dựa theo những bạn dạng biên chép của Nguyễn Trãi, khác biệt là “Đại cáo bình Ngô”, ấy cũng bởi vì mưu sĩ họ Nguyễn là người trực tiếp sống và chống chọi trong thời đoạn nước ta bị giặc Minh xâm lăng. Từ đó có thể thấy, những luận cứ trong bài đại cáo khôn xiết chính xác và giàu tính chống chọi. Qua sản phẩm, tác giả đã cáo giác tội ác hiểm mọi rợ của bầy đàn xâm lăng và bán nước:

“…Mới rồi:

Nhân họ Đại dương chính sự phiền nhiễu

Để trong nước lòng dân oán thù hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Lũ bất chính bán nước cầu vinh…”

Từ đây, từng câu từng chữ trong sản phẩm đều như một nét mực châm phá nên bức tranh về bối cảnh binh đao của nước nhà, vè sự gian giảo, “mượn gió bẻ măng” và hiểm sâu của giặc Minh. Chúng dùng chiêu bài xâm lăng “phù Trần diệt Đại dương” với quân bài cốt yếu Trần Thiêm Bình nhằm mua chuộc quý tộc nhà Trần về phe chúng để đô hộ nước ta Những chế độ của chúng đều sặc mùi dối trả, phỉnh gạt:

“…Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây binh kết oán thù trải nhị mươi năm…”

Chính từ đó, người đọc thấy rõ sự dơ bẩn nhuốc, bại hoại nhân ngãi và quỷ quyệt không lường của bầy xâm lăng:

“…Bại nhân ngãi nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch sẽ không đầm núi…”

Chung quy lại, mục tiêu độc nhất vô nhị nhưng giặc Minh hướng tới khi gót giày chúng dẫm lên cương vực Đại Việt là đô hộ và thống trị, thủ đoạn xóa sổ và kiêm tính nước ta, do lẽ đó nên những điều ngụy biện của chúng không thể dối gạt quần chúng Việt Nam, và tội ác hiểm, âm mưu của chúng thật là “Dơ dáy bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch sẽ mùi”

Sau khi chỉ rõ thủ đoạn và sự nhơ trong kế sách xâm lăng của quân Minh, tác giả mở đầu chuyển mạch ngôn từ và liệt kê hàng loạt tội ác hiểm của chúng:

“…Nướng thứ dân trên ngọn lửa tàn tệ

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”

Không từ âm mưu, quân xâm lăng thảm sát người không có tội không những nhằm thỏa mãn thú tính và bạn dạng chất tàn tệ của chúng nhưng còn thủ đoạn diệt chủng dân nước Nam, ép những người không phục tòng chúng phải đi vào chỗ chết. Chẳng những vậy, đối với những cuộc chiến tranh chống lại sự tàn độc của bầy xâm lăng, chúng chẳng ngần ngại dìm những cuộc khởi nghĩa vào bể máu, gây cảnh binh đạo. CHưa hết, giặc Minh còn ra công vơ vét tài sản, sản vật quý hãn hữu của nước Nam để thảo mãn nhu cầu vật chât, nụ cười xa hoa vô lối của chúng bằng cách bóc lột, bức ép người Việt phải truy lùng sản vật để cống nộp bất chấp mạng sống:

“…Người bị ép xuống hồ dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá to, thuồng luồng

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm quà, khổ một nỗi rừng sâu nước độc

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng

Nhiễu quần chúng, bẫy hươu đen, nơi nơi đặt cạm…”

Bằng giải pháp liệt kê, tác giả đã tài hoa khắc họa về thảm cảnh tóc tang vì chế độ thống trị hung tàn và vô luân lí của giặc Minh gây nên. Không dừng lại ở đó, quân xâm lăng còn thi hành hàng loạt giải pháp hung tàn khác nhằm bóc lột sức công tích, vắt kiệt sức sống của nước ta, song song phá hủy kế sinh nhai của quần chúng:

“…Tàn hại cả giống sâu bọ cây xanh

Nheo trẻ ranh thay kẻ góa bụa cùng cực…”

Rồi thì:

“…Nay xây nhà, mai đắp đất, thủ túc nào phuc dịch cho vừa

Nặng nài những nỗi cu li phen

Tan tác cả nghề canh cửi…”

Tất cả những tội ác hiểm của chúng đều được vạch rõ và chứng minh bằng những bằng chứng xác đáng, chẳng thể chối bào chữa, rồi dồn lại vào hình tượng đối nghịch giữa bầy giặc man rợ hùng game thủ với người dân nhỏ dại nhỏ bé bị chúng hành tội, vắt kiệt lực lực, mồ hôi, máu và nước mắt:

“…Thằng há mồm, đứa nhe răng, máu mỡ bất no nê chưa thỏa…”

Bại hoại nhân ngãi, trời bất dung, đất bất thứ là những thứ sử dụng để miêu tả về những tội ác hiểm đẫm máu của quân Minh trên đất Đại Việt. Tất cả đều được ngòi bút nhan sắc hơn ngọn giáo của Nguyễn Trãi khắc cốt ghi tâm vào sử sách bằng giọng điệu uất hận nghẹn ngào liên kết với giải pháp cường điệu, hình ảnh kì vĩ, bất tận, tội ác hiểm chồng chất bị phơi bày trong bạn dạng cáo trạng đẫm máu và nước mắt. ở đây, bạn dạng tuyên ngôn chủ quyền còn có giá trị như một bạn dạng tuyên ngôn nhân quyền, vạch rõ sự bại hoại nhân ngãi của quân địch:

“…Có lẽ nào trời đất thứ lỗi

Ai bảo thân nhân chịu được…”

Tội ác hiểm nhưng thần bất dung, nhân bất thứ thì quả thực là “Độc ác hiểm thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”

Qua những phân tách nêu trên, hậu thế có thể thấy thảm cảnh chiến tranh tang hải tới dường nào, từ đó ra công đương đầu do một cuộc sống chủ quyền hòa bình nỗ lực giữ gìn nền hòa dân gian tộc, tự do lãnh thổ cương vực. Song song, phải ra công phấn đấu đoàn luyện nhằm góp sức và thành lập giang sơn giàu đẹp, ấy vậy thế hệ xứng đáng với tổ quốc nhưng ông phụ vương phải tấn công đổi cả máu xương thế hệ gìn giữa được.

Tóm lại, qua đoạn nhị của “Đại cáo bình Ngô”, có thể thấy rõ sự hung tàn, thâm độc, độc ác hiểm của giặc xâm lăng, tất cả được khắc họa cụ thể nhờ nghệ thuật chính luận tài hoa của Nguyễn Trãi. Qua đó, hậu thế thấy được giá trị của việc bảo vệ và giữ gìn tổ quốc gấm vóc Việt Nam.

3. Phân tích tội ác hiểm của giặc Minh

Sau khi quân ta đại thắng, phá hủy và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hòa, ưng ý rút quân về nước. Cuộc binh cách thần thánh của quần chúng ta đã hoàn toàn thành công, xong nhị mươi năm tàn khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỉ nguyên độc lập dài lâu cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là một bạn dạng tổng kết về cuộc binh cách mập mạp để thông báo rộng rãi cho toàn dân được biết. Đại cáo bình Ngô được coi là “bạn dạng tuyên ngôn chủ quyền thứ nhị” sau Thơ Thần của Lý Thường Kiệt, xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn học nước ta.

Với nghệ thuật chính luận ngặt nghèo và cảm hứng trữ tình thâm thúy, tác giả đã cáo giác tội ác hiểm tày đình của quân địch xâm lăng, song song ngợi ca sức mạnh diệu kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Đại cáo bình Ngô được khai triển trên cơ sở bốn tưởng nhân ngãi và chân lý về tự do chủ quyền của nước Đại Việt.

Có một cụ thể bấy lâu ít ai chú ý mà thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là vì sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lăng nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngô? Từ Ngô hình thành từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc đánh chiếm và thống trị nước ta khôn xiết tàn ác hiểm. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn tiếng nói dân dã của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được sử dụng để chỉ quân giặc phương Bắc nói bình thường với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi đã cố ý sử dụng cách gọi nhưng quần chúng quen gọi để thổ lộ thái độ căm thù và khinh thường của mình.

Nguyễn Trãi mở màn bài cáo bằng đạo lí nhân ngãi được thành lập trên nền móng là bốn tưởng thân dân nhưng ông rất coi trọng:

Việc nhân ngãi cốt ở im dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân huệ là mối quan hệ giữa nhân loại với nhân loại được thành lập bằng tình mếm mộ và đạo lí. Điều đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào bốn tưởng nhân ngãi một nội dung thế hệ rút ra từ thực tại của lịch sử dân tộc. Theo ông, im dân trước tiên là phải trừ bạo để cho dân được sống im lành, hạnh phúc trong một nước nhà chủ quyền, hoà bình.

Trong bài văn này cũng như trong các sản phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là thứ dân, con đỏ bình thường bình thường nhưng đã chi tiết ra là manh, lệ (kẻ đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi thôn xóm, là quần chúng công tích ở khắp tứ phương nước nhà. Giặc chà đạp nước nhà đồng nghĩa với chà đạp quần chúng. Lo nước tức lo dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.

Nhân huệ không còn eo hẹp trong khuôn khổ đạo đức nhưng đã là một lý tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bạn dạng) làm chỗ dựa. Bởi thế phải chăm lo cho quần chúng được giàu có, an ninh.

Tứ tưởng nhân ngãi gắn liền với sự nghiệp chống xâm lăng. Nhân huệ là chống xâm lăng, chống xâm lăng là nhân ngãi. Như vậy là Nguyễn Trãi đã phanh phui luận điệu nhân ngãi gian giảo của địch và phân định rẽ ròi ta là chính nghĩa, giặc là gian tà.

Dân tộc ta vùng lên chống chọi chống xâm lăng là thích hợp với đạo lí nhân ngãi, do vậy sự sinh tồn có tự do chủ quyền của giang sơn Đại Việt cũng là một chân lý khách quan.

Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, biểu thị lòng kiêu hãnh, tự trọng về nước nhà có một nền văn hiến lâu đời:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Non nước lãnh thổ đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền chủ quyền,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác biệt,

So hào anh tài có lẽ nào cũng có

Đại Việt là một nước nhà có lãnh thổ, rạng rỡ giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư – Thơ Thần), từ lâu đời đã đồng thời sinh tồn cùng các giang sơn phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm cùng với anh tài có lẽ nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là giang sơn có tự do chủ quyền, hòa bình.

So với bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt thì Đại cáo bình Ngô đích thực là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh định nghĩa về giang sơn và dân tộc. Lý Thường Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh tự do dân tộc ở cương vực đơn lẻ, ở ý chí chủ quyền biểu thị trong việc xưng đế, trong sức mạnh tấn công bại quân xâm lăng để bảo vệ nền chủ quyền ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao định nghĩa đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, đồng đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói tới lãnh thổ đơn lẻ, mà không viện tới điều khoản của trời nhưng nói tới truyền thống văn hiến, tức nói tới nền văn hoá của nhân loại sống trên lãnh thổ đó, có tức thị nói tới một dân tộc với toàn diện bốn cách chủ quyền. Như vậy, tự do của giang sơn Đại Việt là một chân lý đương nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi. Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân ngãi bằng chính những bằng chứng còn ghi trong lịch sử:

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích phệ phải diệt vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết mổ tươi Ô Mã.

Việc xưa để ý,

Chứng cớ còn ghi.

Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ý: Những thần thế gian tà ắt phải diệt vong, song song khẳng định thành công luôn đứng về phía những người đương đầu cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và nhan sắc sảo.

Chỉ bằng nhị mươi tứ câu, với những cụ thể chi tiết và nhận định nói chung, tác giả đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả nước nhà chỗ nào giết thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang báo cáo thét căm giận, oán thù than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bạn dạng cáo trạng sắt đá cáo buộc bầy bán nước và quân cướp nước.

Trước hết, tác giả bóc trần thủ đoạn xâm lăng, sau đó lên án chủ trương thống trị hiểm sâu và sau cuối là cáo giác khỏe khoắn những hành động tội ác hiểm của giặc Minh:

Mới rồi:

Nhân họ Đại dương chính sự phiền nhiễu,

Để trong nước lòng dân oán thù giận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,

Lũ bất chính bán nước cầu vinh.

Nguyễn Trãi bóc trần thủ đoạn cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lầu, song song bóc trần luận điệu bịp bợm “phù Trần diệt Đại dương”, để “mượn gió bẻ măng” của chúng. Việc nhà Đại dương cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên cớ, đúng hơn chỉ là một cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ. Những từ như nhân (nhân dịp), thừa cơ đã góp phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Điều đáng để ý là khi vạch rõ thủ đoạn xâm lăng của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc, mà khi cáo giác chủ trương thống trị hiểm sâu và tội ác hiểm của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân ngãi:

Nướng thứ dân trên ngọn lửa tàn tệ,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Ông đã cáo giác tội ác hiểm của chúng bằng nhị hình ảnh rất tuyệt vời: nướng thứ dân, vùi con đỏ, vừa miêu tả một cách rất chi tiết tội ác hiểm hung tàn kiểu trung thế kỉ của bầy giặc, vừa mang tính nói chung như khắc vào bia căm phẫn để muôn thuở người dân nước Việt chửi rủa quân xâm lăng bạo tàn.

Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi không đi sâu vào việc cáo giác chủ trương đồng hóa hiểm sâu nhưng cáo giác những chủ trương thống trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét hết các sản vật quý báu nhưng còn bóc lột sức người, sức của bằng thuế khoá, cu li phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, thảm sát quần chúng không có tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong cảnh ngộ bi tráng tới khốn cùng. Cái chết đợi họ trên rừng, dưới hồ, đúng như lời bài cáo đã nêu:

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,

Gây binh kết oán thù trải nhị mươi năm.

Bại nhân ngãi nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch sẽ không đầm núi.

Người bị ép xuống hồ dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá to, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm quà, khổ một nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu quần chúng, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống sâu bọ cây xanh,

Nheo trẻ ranh thay kẻ goá bụa cùng cực.

Đối chọi với thảm cảnh của người dân không có tội là hình ảnh quân địch xâm lăng hung tợn, hung tàn: Thằng há mồm, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Câu văn đã khắc hoạ khuân mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm lăng.

Để miêu tả tội ác hiểm chất chồng của giặc và khối căm hận sục sôi của quần chúng ta, Nguyễn Trãi đã xong bạn dạng cáo trạng bằng nhị câu văn mang ý nghĩa nói chung rất cao:

Độc ác hiểm thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ dáy bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch sẽ mùi.

Tác giả đã lấy cái vô bờ (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô bờ (tội ác hiểm của giặc), sử dụng cái cực kì (nước Đông Hải) để nói cái cực kì (sự dơ bẩn bẩn của quân địch). Câu văn đầy hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận thâm thúy tội ác hiểm của giặc Minh xâm lăng. Dân tộc ta chỉ còn đoạn đường độc nhất vô nhị là đứng lên hành động:

Có lẽ nào trời đất thứ lỗi,

Ai bảo thần nhân chịu được?

Lời văn trong bạn dạng cáo trạng vừa hùng hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi, khi thì thương cảm da diết; lúc muốn thét thật béo, lúc nghẹn ngào, căm tức. Tất cả cùng một lúc miêu tả những cung bậc khác biệt trong tâm bốn tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo bình Ngô chứa đựng những nội dung cần yếu của một bạn dạng “tuyên ngôn chủ quyền” bởi vì chính những nội dung đã phân tách ở trên.

Nguyễn Trãi đã phản ảnh chân thật thời đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng văn pháp tự sự liên kết với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thắng lợi hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian nan:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dại nương mình.

Trong hình tượng Lê Lợi có sự hợp nhất hài hòa giữa nhân loại phổ biến và thủ lĩnh nghĩa binh. Lê Lợi xứng đáng là vong hồn của cuộc khởi nghĩa bởi vì ông có tài năng đơn vị, tụ hợp, liên minh mọi người, song song có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài giỏi. Lê Lợi căm phẫn giặc thâm thúy và có kiên tâm cao độ để thực hành lí tưởng tấn công đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi nước nhà:

Ngẫm thù phệ há đội trời bình thường,

Căm giặc nước thề không cùng sống.

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;

Nếm mật nằm gai, há phải một nhị khuya sớm.

Quên ăn do giận, sách thao lược suy xét đã tinh;

Ngẫm trước tới nay, lẽ hưng vong lần khần càng kĩ.

Những trăn trở trong cơn nằm mơ,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.

Ngẫm thù phệ há đội trời bình thường, căm giặc nước thề không cùng sống là thái độ và chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn do giận… là sự đoàn luyện, thách thức đối với bạn dạng thân, từ trái tim tới khối óc. Không phải một sớm một chiều nhưng là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì do trong tâm khảm lúc nào cũng ngay ngáy mối toan lo cứu nước, cứu dân do vậy Lê Lợi luôn ở trong tâm cảnh: Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã nói lên được thuộc tính quần chúng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Thuở đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa nhị bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân địch đương mạnh.

Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa cực kì gian khổ, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa binh đã phải vượt qua vô vàn gian truân, gian nan: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương mà nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử nhưng cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những gian truân thách thức và ngày một phệ mạnh, đủ sức tổng phản công giành thành công.

Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa binh Lam Sơn vượt qua những gian truân nói trên? Trước hết, nghĩa binh có sức mạnh của bốn tưởng nhân ngãi, của tinh thần dân tộc, của mục tiêu chống chọi là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho quần chúng, bảo vệ nền chủ quyền và truyền thống văn hiến lâu đời của giang sơn Đại Việt. Sau đó, nhân tố cần thiết quyết định thành công của cuộc khởi tức thị tài trí mưu lược, phẩm chất nhân vật của Lê Lợi. Ông biểu thị rất rõ vai trò của một bậc minh quân: căm phẫn giặc thâm thúy, tự tín, tình nguyện đặt vận mệnh của giang sơn, dân tộc lên vai mình.

Tội ác hiểm của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo Bình ngô đại cáo là “áng thiên cổ hùng văn” đầy khí thế của dân tộc ta một thời oanh liệt, ẩn trong đó là kỹ năng, là dấu ấn sâu đậm cho đẳng cấp văn học Nguyễn Trãi. Cùng theo dõi bài viết bên dưới để tận tường thêm những hành động hung tàn, vô nhân đạo của giặc minh đã dày vò dân ta chuẩn y lời kể của tác giả.

4. Tội ác hiểm của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo

Mở bài phân tách về tội ác hiểm của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo

Kho tàng văn chương Việt có vô quà những sản phẩm, mỗi sản phẩm mang cho mình một giá trị nhất thiết. Song so bề lịch sử, lại có những áng văn hùng hồn khí thế dân tộc, đọc nó ta thấy được một thời chinh hào chiến đấu hùng hiện lên trước mắt, ta cảm được cái rộn rực từ trong tim ta. Và trong số đó có “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Nói tới “Bình Ngô đại cáo” là nói tới một cột mốc lịch sử cần thiết của nước ta – tấn công đuổi giặc Minh xâm lăng. Sản phẩm được xem là bạn dạng tuyên ngôn chủ quyền lần thứ nhị của quần chúng ta, là bài tổng kết toàn diện nhất được viết bởi vì Nguyễn Trãi. Đọc “Bình Ngô đại cáo” ta tuyệt vời với luận điệu và nguyên tắc sắt đá của Nguyễn Trãi khi kể tội quân địch, làm người đọc cảm nhận rõ những đau thương mất mát nhưng đồng bào đã hứng chịu.

Thân bài về tội ác hiểm của giặc Minh trong Bình Ngô đại cáo

“Bình Ngô đại cáo” là sản phẩm để đời của Nguyễn Trãi, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng đọc giả và sống mãi tới tận ngày bữa nay. Ông hình thành trong thời nước nhà binh đao, triều đình suy vi thế nên ông hiểu rõ nỗi đau quê hương bị dằn xéo. Bằng cảm xúc chân thực và kỹ năng của mình, ông cho ra đời “Bình Ngô đại cáo”, để thay lời muốn nói, đó là lời kết cho một cuộc chinh chiến đã qua cũng là lời mở cho một thời gian thế hệ mở đầu. Thấm nhuần suốt sản phẩm là bốn tưởng nhân ngãi ở đời, là truyền thống và ý thức Đại Việt.

Đọc sản phẩm, chắc hẳn game thủ đọc sẽ trằn trọc do sao giặc Minh xâm lăng mà ở tiêu đề lại là bình “Ngô”. Ngô là cách gọi bình thường của người nước ta ám chỉ giặc phương Bắc và quân hung tàn, Nguyễn Trãi đặt tựa “Bình Ngô đại cáo” chính là biểu thị thái độ coi thường và căm thù tột đỉnh với quân giặc. Song song biểu dương quân dân Đại Việt đã thành công được quân địch xâm lăng.

Từ lâu bốn tưởng nhân ngãi đã thấm sâu trong trí não các nhà nho yêu nước, Nguyễn Trãi chỉ rõ “Bại nhân ngãi nát cả đất trời” để kể tội của chúng. Giặc Minh thủ đoạn cướp nước ta với luận điệu “Phù Trần diệt Đại dương” bản chất đó chỉ là cái cớ để chúng dễ bày mưu tính kế chen chân vào Đại Việt. Song trong sản phẩm, Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu gian giảo, dối trá của chúng “Quân cuồng Minh thừa cơ gây loàn” trong một câu thơ bảy chữ, Nguyễn Trãi đã tóm gọn được thủ đoạn của giặc. Từ đó, ta thấy được sự tài ba trong việc chọn lựa từ ngữ gạn lọc, mà lại đủ ý, mỗi chữ liên kết với nhau rất vừa vặn vẹo, vào trọng điểm vấn đề chứ không dông dài.

Bình Ngô đại cáo – Áng thiên cổ hùng văn

Nếu ở câu trên tác giả đưa việc nhân ngãi để mở màn cho tội ác hiểm của chúng, thì ở các câu thơ dưới đây sẽ biểu thị một cách rõ nét nhất sự thú tính, hung tàn của giặc Minh:

“Nướng thứ dân trên ngọn lửa tàn tệ

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.”

Hai hình ảnh táo tợn trong nhị câu thơ đã khắc trong tim người Việt một vết thương rỉ máu muôn thuở do nỗi đau dân tộc. Độc ác hiểm thay chúng không chỉ vơ vét tài sản, của cải của quần chúng, chúng còn hung tàn ra tay thảm sát người không có tội. Hình ảnh “thứ dân” và “con đỏ” vừa chi tiết vừa chân thật, làm nhị câu thơ như có máu và nước mắt đang chảy, nhịn nhường như trước mắt ta như hiện lên hình ảnh những sinh linh đang oằn oại khổ cực tới tột độ. Đó là một trong số những tội ác hiểm nhưng chúng đã gieo rắc lên lãnh thổ nước ta.

Nhưng đâu chỉ có thế, những tội ác hiểm tày đình của chúng còn được tác giả chỉ ra trong các câu:

“Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gieo binh kết oán thù trải nhị mươi năm

Bại nhân ngãi nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch sẽ không đầm núi.”

Ở đây, Nguyễn Trãi không hướng hoàn toàn người đọc tới chủ trương đồng hóa mất nhân tính của bầy giặc nhưng cáo giác chế độ thống trị vô nhân đạo của chúng. Vừa vơ vét của cải,vừa thu thuế nặng đẩy quần chúng lâm vào cảnh cùng cực, chúng vét sạch sẽ sành sanh không chừa lại chút gì, như thế chẳng khác nào đẩy dân ta vào chỗ chết. Ấy vậy nhưng trong nhị mươi năm, quần chúng Đại Việt phải sống trong cảnh lầm than, đau khổ như âm phủ.

Bao nhiêu đó vẫn chưa thỏa mãn được lòng tham của bầy lấn chiếm chúng bắt dân ta lên rừng xuống hồ tìm bắt sản vật cống nạp cho chúng. Người bị ép xuống hồ mò ngọc chết do cá to, thuồng luồng; người bị bắt lên núi đãi cát tìm quà chết do rừng sâu nước độc. Tới cả sâu bọ cây xanh nhỏ dại nhỏ bé chúng cũng không tha, giăng lưới, đặt bẫy thảm sát hết thảy. Hậu quả để lại là sự mất mát chẳng thể nào bôi xóa được, biết bao gia đình phải chịu cảnh hậu phi mất chồng, con mất phụ vương – “Nheo trẻ ranh thay kẻ góa bụa cùng cực”.

Song song với những hình ảnh khốn cùng của quần chúng, tác giả còn chỉ rõ khuân mặt quỷ ma của bầy giặc bất nhân tính “ Thằng há mồm, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán” câu thơ làm người đọc phải nổi hết da gà do kinh sợ khuân mặt khát máu của bầy quỷ. Tội ác hiểm của chúng chẳng nơi nào có thể lượng thứ, không biết bao nhiêu giấy bút ghi hết cho được: “Độc ác hiểm thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/ Dơ dáy bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch sẽ mùi.” Hai câu thơ mang ý nghĩa nói chung rất cao, tác giả sử dụng cái vô bờ để nói tới cái vô bờ, rồi tiếp tục sử dụng cái cực kì để nói cái cực kì.

Ở mặt nội dung “Bình Ngô đại cáo” là bạn dạng cáo trạng toàn diện, cụ thể của Nguyễn trãi. Ở mặt nghệ thuật sản phẩm là một “áng thiên cổ hùng văn”. Nét nổi trội trong sản phẩm là giọng văn, lúc uất hận trào sôi, khi lại thương cảm khẩn thiết, rồi nghẹn ngào tấm tức. Trong hồ hết các câu thơ kể tội, tác giả đều dùng nghệ thuật liệt kê tài hoa liên kết cùng việc lựa chọn hình ảnh điển hình đắt giá làm nên sự rực rỡ, gợi tả hình ảnh và cảm giác chân thật cho người đọc như được mắt thấy tai nghe. Với những lập luận nhan sắc bén, nguyên tắc của Nguyễn Trãi khiến cho bầy giặc phải câm nín. Bởi vì bấy nhiêu đó đã quá đủ cho một dân tộc bị đọa đày phải vươn lên đương đầu, khởi nghĩa, khởi nghĩa không chỉ tấn công đuổi láng giêng xâm lăng, nhưng cuộc khởi nghĩa này còn là cuộc cách mệnh phóng thích hòa bình cho dân tộc, giành lại quyền sống cho nhân loại.

Kết bài về tội ác hiểm của quân Minh trong Bình Ngô đại cáo

Có thể trong mỗi chúng ta sẽ có một cảm nhận khác biệt khi đọc đoạn kể tội đầy máu và nước mắt này. Nhưng kiên cố rằng khi game thủ còn thương cảm, còn nhói đau tức thị trong tim game thủ còn chảy dòng máu nhân vật, còn sinh tồn ái tình quê hương sâu nặng. Sản phẩm là bạn dạng cáo trạng sắt đá kể tội giặc Minh trong nhị mươi năm gieo rắc đau thương trên đất Việt. Để có được một bạn dạng cáo trạng như thế chẳng thể không kể tới công sức của Nguyễn Trãi, thật chẳng thể không khâm phục kỹ năng của ông cùng với sự hiểu biết sâu rộng.

Xem thêm: Động Vật Nào Có Dấu Vân Tay Giống Con Người Nhất, Chính Xác, Koala Có Dấu Vân Tay Giống Con Người

Trong sản phẩm có sự đan xen liên kết giữa hình ảnh nói chung mang tính biểu trưng và hình ảnh chi tiết, sinh động. Chính do vậy, ta có thể kiêu hãnh nói với trái đất rằng, chúng ta kiêu hãnh về dân tộc, về lịch sử ta, nhờ đó chúng ta biết yêu thêm tổ quốc nước nhà, biết giữ giàng và tạo ra nước nhà phồn vinh, muôn năm.