Phân tích nhân vật người Vợ nhặt vào tác phẩm Vợ Nhặt
Bài làm
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim lạm viết lên bằng cái ám ảnh rùng rợn của nạn đói đầu năm 1945 trong tâm địa trí của tác giả cũng là trong thâm tâm trí của người dân miền Bắc. Nạn đói thê thảm bao phủ khắp không gian và biến một người đàn bà thành cô “vợ nhặt”. Có thể nói nhân vật người vợ nhặt là một vào những nhân vật độc đáo nhất vào lịch sử văn học Việt phái mạnh hiện đại, ẩn chứa nhiều quan tiền niệm nghệ thuật với triết lý sống sâu sắc.
Bạn đang xem: Phân tích người vợ nhặt trong tác phẩm vợ nhặt
Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong nạn đói cực kì thê thảm, thị bị mẫu đói dồn tới bước khó khăn khăn có lúc như mất đi vẻ đẹp dịu dàng nữ tính vốn có. Người vợ nhặt không có tên. Thị nghèo khổ tới mức không có một cái brand name riêng mang đến mình. Loại đói, dòng nghèo còn tước đoạt cả vẻ đẹp hình thể, tạo nên chị ta tiều tụy cả về hình dáng: “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “cái bụng gầy lép”, “bộ quần áo rách rưới như tổ đỉa”. Thị “ton ton” chạy theo Tràng đẩy xe, liếc mắt cười tình. Thị “sưng sỉa” đòi ăn. Thị “chao chát”, “chỏng lỏn”, “đon đả”: “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì!”… vì miếng ăn nhất thời nhưng chị sẵn sàng theo ko một người đàn ông xa lạ. Vài lời nói tầm phơ tầm phào với bốn chén bánh đúc nhưng mà thị trở thành vợ “nhặt về” của anh phu Tràng – một kẻ ế, nghèo, ngơ ngẩn. “Cô dâu” – thị về nhà chồng cơ mà không tài sản, không nhan sắc. Cái đói khiến thị thành vật vô giá trị. Về phương diện này người vợ nhặt còn ko bằng nhân vật Mị vào tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của bên văn sơn Hoài. Mị mặc dù bị áp bức tới vô cảm, chẳng bằng thân trâu ngựa nhưng không nhiều ra còn xinh đẹp và tài hoa. Còn thị, ngay lập tức cả dòng phần ưu ái thường dành cho phụ nữ thì tạo hóa cũng từ chối đến người đàn bà này. Cuộc sống đã đói khổ khiến thị mất đi dòng duyên nhỏ gái, vừa nghe được ăn thì đã “ton ton chạy lại đẩy xe bò” mang đến Tràng. Rồi lại còn “chạy tới xưng xỉa đòi ăn”, đến lúc được ăn thì “cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” cùng “hai nhỏ mắt trũng hoáy sáng sủa lên”. Thị gần như mất hết lòng tự trọng, chẳng có nét gì là của người phụ nữ nông thôn.

Thế nhưng bản chất của chị ko phải là người đanh đá, nanh ác, cơ hội. Thực chất là vì hoàn cảnh khiến cho thị thành như vậy. Vì vậy cho đến lúc được hạnh phúc gia đình, thị bỗng trở về bản chất lương thiện chu đáo vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Từ lúc trở thành “cô dâu”, thị e thẹn, ngượng ngùng thật đáng yêu khi về công ty chồng. Sau đêm tân hôn, thị gần như trở thành người khác. Thị biết lo toan, vun vén mang lại hạnh phúc gia đình. Thị cùng bà cụ Tứ dọn sảnh vườn, nhổ cỏ, đem mấy bộ quần áo ra hong, loại ang thô cũng đầy ắp nước… mang lại hơi thở mới mang lại căn nhà. Bữa cơm ngày đói tuy đơn sơ, miếng cháo cám đắng ngắt nhưng bao gồm thị là người khơi dậy khát vọng sống của mọi người khi nhắc tới cảnh Việt Minh phá kho thóc Nhật cứu đói. đưa ra tiết này đã hé mở con đường giải bay cuộc đời cho bé người và khao khát một tương lai tươi sáng ở nhân vật người vợ nhặt.
Xem thêm: Soạn Bài Tiếng Mẹ Đẻ Nguồn Giải Phóng Các Dân Tộc Bị Áp Bức (Nguyễn An Ninh)
Như vậy, trải qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt vào tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim lân đã phản ánh tình trạng thê thảm cùng niềm thương cảm sâu sắc với số phận bé người lao động nghèo khổ trong nạn đói 1945. Hình ảnh người vợ nhặt là hiện thân đến bản chất tốt đẹp của bé người, mang lại khát vọng hạnh phúc gia đình cùng hiện thân của khát vọng sống.