Dưới đó là lời giảng Quẻ Lôi Hỏa Phong theo sách "Kinh dịch - Đạo của fan quân tử" của học mang Nguyễn Hiến Lê


*

|:||:: Lôi Hỏa Phong (豐 fēng)

Quẻ Lôi Hỏa Phong, đồ hình |:||:: còn gọi là quẻ Phong (豐 feng1), là quẻ thứ 55 trong gớm Dịch.

Bạn đang xem: Quẻ lôi hỏa phong

* Nội quái là ☲ (|:| 離 li2) Ly giỏi Hỏa (火).

* Ngoại quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn xuất xắc Sấm (雷).

Nhật thực miêu tả trong quẻ này diễn ra vào ngày trăng tròn tháng 7 năm 1070 trước công nguyên.

Giải nghĩa: Thịnh dã. Hòa mỹ. Thịnh đại, được mùa, nhiều người góp sức. Chí đồng đạo hợp đưa ra tượng: tượng cùng đồng chổ chính giữa hiệp lực.

Qui là về, là tới nơi, tới mục đích, đạt kết quả (qui kết), mà đạt được kết quả thì thịnh lớn, cho nên sau quẻ Qui (muội) tới quẻ Phong (thịnh lớn).

Thoán từ

豐: 亨. 王假之, 勿憂, 宜日中.

Phong : hanh. Vương vãi cách chi, vật ưu, nghi nhật trung.

Dịch: thịnh lớn thì khô giòn thông. Bậc vương giả tới được đừng lo, đề xuất giữ đạo trung như mặt trời đứng giữa trời.

Giảng: Dưới là Ly (sáng suốt), bên trên là Chấn (động) sáng suốt mà hành động thì làm bắt buộc được sự nghiệp thịnh lớn. Chỉ bậc vương giả có quyền có vị mới làm tới chỗ được. Lúc đã thịnh lớn thì người sáng suốt biết rằng sẽ phải suy đề xuất thường lo; tuy thế đừng đề nghị lo suông, cứ giữ được đạo trung như mặt trời (nội quái Ly có nghĩa là mặt trời) đứng ở giữa trời thì sẽ tốt.

Đại Tượng truyện áp dụng vào việc hình ngục, khuyên người trị dân phải sáng suốt mà soi xét tình dân mạnh mẽ xử đoán thì mau xong xuôi việc.

Hào từ

1. 初九: 遇其配主, 雖旬, 无咎, 往有尚.

Sơ cửu: Ngộ kì phối chủ, mặc dù tuần, vô cữu, vãng hữu thượng.

Dịch: Hào 1, dương: Gặp được người chủ hợp với mình, mặc dù ngang nhau tuy nhiên không có lỗi tiến đi thì có công nghiệp đáng khen.

Giảng: Hào này ở nội quái Ly, có đức sáng suốt, có tài (vì là dương), ở trên ứng với hào 4, thuộc ngoại quái Chấn, có đức hoạt động, mà cũng có tài (dương cương cứng ) Bình thường thì ứng với nhau, phải một âm một dương mới tốt, ở hào này thì khác, cùng là dương cả mà cũng tốt, vì 1 sáng suốt, 4 hoạt động, nhì hào dương thành, chứ không tương phản, giúp nhau làm buộc phải sự nghiệp lớn được. Nhị hào ngang nhau, biết châm chước ý kiến nhau là điều tốt mang đến sự hợp tác; nếu một bên cầu thắng, một mặt chỉ nhường, thì không còn là hợp tác nữa, khó mà thành công lớn được.

2. 六二: 豐其蔀, 日中見斗.往, 得疑疾, 有孚發若, 吉.

Lục nhị: phong kì bộ, nhật trung kiến đẩu;

Vãng, đắc nghi tật, hữu phu phát nhược, cát.

Dịch: Hào 2, âm: Bị màn che lớn, dày quá, như ban ngày (mặt trờ bị đậy lấp) mà thấy sao Bắc đẩu; tiến đi thì bị ngờ và ghét, cứ lấy lòng chí thành mà cảm hoá được người trên thì tốt.

Giảng: Hào âm này ở giữa quẻ Ly, đắc trung đắc chính; nhưng lại kẻ ứng với nó là hào âm, âm nhu bất chính, không giúp được nó, thiếu tín nhiệm nó; nó như một hiền thần gặp một ám chúa, cần ví với mặt trời (quẻ Ly) bị mây mù bít dày. Có muốn theo 5 thì bị 5 nghi kỵ và ghét; chỉ có cách giữ vững đức trung trinh, lấy lòng chí thành mà đối xử với 5, rồi sau 5 sẽ tỉnh ngộ. Chữ 若 nhược ở trên đây trỏ hào 5.

3. 九三: 豐其沛, 日中見沬.折其右肱, 无咎.

Cửu tam: Phong kỳ bái, nhật trung kiến muội.

Chiết kì hữu quăng, vô cữu.

Dịch: Hào 3 dương: bị màn đậy kín mít, ban ngày mà thấy sao nhỏ (muội) gẩy cánh tay phải, ko có lỗi.

Giảng: Hào này dương cương, ở trên cùng quẻ Ly là người sáng suốt, có tài; nhưng hào bên trên cùng ứng với nó lại bất tài (âm nhu), ko giúp gì được nó; đã vậy nó còn bị hào 4 che ám, hoàn cảnh còn tệ hơn hào 2 nữa, do đó bảo là bị tấm màn bịt kín mít, ban ngày mà tối như đêm, thấy được cả những vì sao nhỏ. Như vậy hào 3 như người bị gẩy cánh tay phải (trỏ hào 5 không giúp gì được nó), nó không có lỗi vì hoàn cảnh khiến vậy.

4. 九四: 豐其蔀, 日中見斗, 遇其夷主, 吉.

Cửu tứ: Phong ki bộ, nhật trung kiến đẩu, ngộ kì di chủ, cát.

Dịch: Hào 4, dương: Bị màn che lớn dày quá, như ban ngày mà thấy sao Bắc Ðẩu gặp được bạn bằng vai vế, tốt.

Giảng: Hào này dương cương, ở địa vị cao, có thể lập được sự nghiệp, nhưng bất trung, bất chính lại bị hào 5 âm nhu, hôn ám bịt lấp hoàn cảnh cũng như hào 2, cũng ban ngày mà thấy sao Bắc đẩu, tuy nhiên nay được hào 1 ở dưới đồng đức (cũng dương cưng cửng ) bằng vai vế ứng với nó, cũng coi là tốt được.

5. 六五: 來章, 有慶, 譽, 吉.

Lục ngũ: Lai chương, hữu khánh, dự, cát.

Dịch: Hào 5, âm: Mời những nhân tài giúp mình thì được phúc, có tiếng khen, tốt.

Giảng: Hào này ở địa vị chí tôn, âm nhu, không có tài tạo được sự nghiệp thịnh lớn, tuy thế khá là có đức trung (ở giữa ngoại quái), và có hào 3, 4 dương cưng cửng , hiền tài ở dưới mình, nếu biết mời họ giúp mình thì có phúc và được tiếng khen, tốt.

6. 上六: 豐其屋, 蔀其家, 闚其戶.闃其无人,三歲不覿, 凶.

Thượng lục: Phong kì ốc, bộ kì gia, khuy kì hộ,

Huých kì vô nhân, tam tuế bất địch, hung.

Dịch: Hào bên trên cùng, âm: Cất nóc nhà rất cao lớn mà phòng mình ở lại nhỏ hẹp, bị bưng bít (tự mình không muốn ai lui tới với mình), vì vậy nhìn vào cửa, lặng tanh không thấy bóng người, ba năm không thấy ai (hoặc không giác ngộ) xấu.

Giảng: Hào này khó hiểu, mỗi sách giảng một khác, chúng tôi theo cách hiểu của Phan Bội Châu vì hợp với Tiểu Tượng truyện rộng cả.

Hào này âm nhu, như người hôn ám, mà ở trên cùng, có địa vị rất cao, hệt như người cất nhà, nóc rất cao (địa vị cao), mà buồng mình ở lại thấp hẹp (bản tính âm nhu), thế là tự mình bịt lấp mình, nên không một ai lui tới với mình, bởi vì đó mà đứng ở cửa nhìn vào, không thấy bóng người, tía năm ko thấy ai (hoặc ba năm vẫn ko giác ngộ: địch là thấy rõ). Không gì xấu hơn.

***

Tên quẻ là thịnh lớn, rất tốt mà ko có hào nào thật tốt, hào nào cũng có lời răn đe. Cổ nhân muốn cảnh cáo chúng ta ở thời thịnh lớn, có phúc thì cũng có sẵn mầm hoạ, phải cẩn thận lắm mới được.

Xem thêm: Tồn Tại Xã Hội Và Ý Thức Xã Hội Liên Hệ Thực Tiễn Việt Nam, Ý Thức Xã Hội

Các quẻ khác, thường hào dương ứng với âm, âm ứng với dương mới tốt; quẻ này trái lại, dương ứng với dương (như 1 và 4) mới tốt. Đó cũng là một lời khuyên răn nữa: ở thời thịnh, người ta thường vì quyền lợi phân tách rẽ nhau mà hoá suy, phải biết đồng đức, đồng trọng điểm với nhau, thì mới tránh được hoạ.