Dưới đây là lời giảng Quẻ Phong tô Tiệm theo sách "Kinh dịch - Đạo của người quân tử" của học giả Nguyễn Hiến Lê


*

::|:|| Phong tô Tiệm (漸 jiàn)

Quẻ Phong tô Tiệm, đồ hình ::|:|| còn gọi là quẻ Tiệm (漸 jian4), là quẻ thứ 53 trong gớm Dịch.

Bạn đang xem: Quẻ phong sơn tiệm

* Nội quái là ☶ (::| 艮 gen4) Cấn hay Núi (山).

* Ngoại quái là ☴ (:|| 巽 xun4) Tốn tuyệt Gió (風).

Giải nghĩa: Tiến dã. Tuần tự. Từ từ, thong thả đến, lần lần, bò tới, chậm chạp, nhai nhỏ nuốt vào. Phúc lộc đồng lâm bỏ ra tượng: phúc lộc cùng đến.

Ngừng rồi thì có lúc phải tiến lần lần, do đó sau quẻ Cấn tới quẻ Tiệm. Tiệm là tiến lần lần.

Thoán từ

漸: 女歸, 吉, 利貞.

Tiệm: Nữ qui, cát, lợi trinh.

Dịch: tiến lần lần; Như bé gái về nhà chồng, tốt; giữ vững đạo chính thì lợi.

Giảng: Quẻ này bên trên là Tốn (ở trên đây có nghĩa là cây), dưới là Cấn (núi). Bên trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, yêu cầu đặt thương hiệu là Tiệm.

Cấn còn có nghĩa là ngăn, Tốn còn có nghĩa là thuận, phòng ở dưới mà thuận ở trên, để cho tiến, nhưng cấm đoán tiến vội, mà tiến lần lần thôi. Như trường hợp con gái về nhà chồng, việc gả con, phải thận trong, thung dung, tránh việc hấp tấp, có vậy mới tốt.

Xét bốn hào ở giữa quẻ, từ 2 tới 5, từ dưới tiến lên, hào nào cũng đắc chính ( hào âm ở vị âm, hào dương ở vị dương), nhất là cũng đắc chính, đắc trung ; cho nên vì thế Thoán từ răn dạy giữ vững đạo chính như những hào đó thì tốt.

Tiến mà lần lần, ko nóng nảy, vẫn tĩnh như nội quái Cấn, vẫn hoà thuận như ngoại quái Tốn thì không vấp váp, không bị khốn cùng.

Đại Tượng truyện khuyên nhủ người quân tử yêu cầu theo tượng quẻ này mà tu thân, tiến lần lần cho được thành người hiền, rồi thành bậc thánh, để cải thiện phong tục đến dân (Quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục).

Hào từ

1. 初六: 鴻漸于干, 小子厲, 有言, 无咎.

Sơ lục: Hồng tiệm vu can, tiểu nhân lệ, hữu ngôn, vô cữu.

Dịch: Hào 1, âm: bé chim hồng tiến đến bờ nước, nhỏ dại (hoặc tiểu nhân) đến là nguy, than thở, nhưng mà không có lỗi.

Giảng: Hồng là loài chim sống ở mặt nước, di thê, mùa lạnh thì cất cánh xuống phương Nam, mùa nóng trở về phương Bắc, bay từng đàn, có thứ tự; sáu hào quẻ Tiệm đều tượng trưng bằng chim hồng.

Hào 1 âm nhu, ở dưới cùng, như chim hồng mới tiến được tới bờ nước, than thở không tiến được mau, cho là nguy, vì còn nhỏ, chưa hiểu biết (tiểu tử), sự thực thì tuy không tiến được mấy, mà lại vẫn ko tội lỗi gì.

2. 六二: 鴻漸于磐, 飲食衎衎, 吉.

Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản, cát.

Dịch: Hào 2 âm: Chim hồng tiến đến phiến đá lớn, nạp năng lượng uống thảnh thơi, tốt.

Giảng: Hào này đắc trung, đắc chính, âm nhu mà ứng với hào 5 dương cưng cửng ở trên, yêu cầu tiến được một cách dễ dàng, tới đậu ở phiến đá lớn, vui vẻ, ung dung.

Tiểu tượng truyện khuyên nhủ hào này được hào 5 giúp đỡ thì phải làm gì đáp lại, chứ đừng ăn uống không.

3. 九三: 鴻漸于陸, 夫征不復, 婦孕不育, 凶. 利禦寇.

Cửu tam: Hồng tiệm vu lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung, lợi ngự khấu.

Dịch: Hào 3, dương: Chim hồng tiến tới đất bằng, chồng ra đi không về, vợ có mang (đẻ nhỏ mà) không nuôi, xấu; đuổi cướp thì có lợi.

Giảng:Hào này đã tiến lên đất bằng, nó dương cương còn muốn tiến nữa, mà ko muốn ngó lại; nó ở sát hào 4 âm nhu, thân với 4 nhưng mà không chính ứng với nhau, mà cả nhị đều bất trung, ví như cặp vợ chồng ko chính đáng; chồng (hào 3) bỏ vợ mà đi ko ngó lại, vợ (hào 4), có sở hữu đẻ bé mà không nuôi, xấu. Nếu hoà thuận với nhau mà giữ đạo chính (trừ cái bất chính đi như trừ cướp) thì có lợi.

4. 六四: 鴻漸于木, 或得其桷, 无咎.

Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ giốc, vô cữu.

Dịch: Hào 4 âm: Chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu, không có lỗi.

Giảng: Hào 4 âm nhu mà ở bên trên hào 3 dương cương, như chim hồng cất cánh lên cây cao, ko phải chỗ đậu của nó (vì nó vốn ở bên trên nước), nhưng may được cành thẳng, thì cũng yên ổn ổn. Hào này bản chất âm, nhu thuận mà lại ngoại quái Tốn cũng có nghĩa thuận, đề xuất được im ổn.

5. 九五: 鴻漸于陵, 婦三歲不孕.終莫之勝, 吉.

Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng. Chung mạc chi thắng, cát.

Dịch: Hào 5, dương: chim hồng lên gò cao; vợ cha năm ko sinh đẻ, tuy thế cuối cùng không gì thắng nổi điều chính, tốt.

Giảng: Hào dương này ở ngôi cao, chính ứng với hào 2, âm ở dưới, như vợ chồng muốn ăn uống nằm với nhau, tuy thế hào 5 bị hào 4 ngăn cản (ghen với 2); hào 2 lại bị hào 3 chống cản (ghen với 5) thành thử bố năm vợ chồng bị cách trở, mà vợ ko có với được. Mà lại 3 và 4 không thắng được 2 và 5 vì 2 và 5 đều đắc trung, mà việc 5 với 2 kết hợp với nhau là chính đáng, đề xuất rốt cuộc chúng phải chịu thua.

6. 上九: 鴻漸于陸 , 其羽可用為儀, 吉.

Thượng cửu: Hồng tiệm vu quì (chữ 陸 dùng như chữ 逵 quì là đường mây), kì vũ khả dụng vi nghi, cát.

Dịch: Hào bên trên cùng, dương: Chim hồng cất cánh bổng ở đường mây, lông nó (rớt xuống) có thể dùng làm đồ trang điểm, tốt.

Xem thêm: Soạn Bài Đấu Tranh Cho Một Thế Giới Hòa Bình Của Gg Mác, Soạn Bài Đấu Tranh Cho Một Thế Giới Hòa Bình

Giảng: Theo thường lệ, hào bên trên cùng, ở bên trên hào 5 chí tôn, không có “vị” gì cả, vô dụng. Vào quẻ này, nó ở cao hơn nữa cái gò cao, tức ở trên không trung, bên trên đường mây (vân lộ). Nó là hạng xuất thế, khí tiết thanh cao, khác phàm; tùy không trực tiếp giúp đời, nhưng tứ cách làm gương mang đến đời, xã hội có họ thì mới văn minh, cũng như lông nhỏ hồng không dùng vào việc ăn uống cất nhà, cày ruộng, chở đồ . . được, nhưng lại làm đồ trang điểm như cờ, quạt, mũ, thì lại quí.