Dưới đây là lời giảng Quẻ tô Thiên Đại Súc theo sách "Kinh dịch - Đạo của tín đồ quân tử" của học trả Nguyễn Hiến Lê

|||::| tô Thiên Đại Súc (大畜 dà chù)
Quẻ Thiên đánh Đại Súc, đồ hình |||::| còn gọi là quẻ Đại Súc (大畜 da4 chu4), là quẻ thứ 26 trong khiếp Dịch.
Bạn đang xem: Quẻ sơn thiên đại súc
* Nội quái là ☰ (||| 乾 qian2) Càn xuất xắc Trời (天).
* Ngoại quái là ☶ (::| 艮 gen4) Cấn xuất xắc Núi (山).
Giải nghĩa: Tụ dã. Tích tụ. Chứa tụ, súc tích, lắng tụ một chỗ, dự trữ, đựng, để dành. Đồng loại hoan hội bỏ ra tượng: đồng loại hội họp vui vẻ, cục bộ.
Mình ko có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức, hoài bão, yêu cầu sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: Nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại. Thoán từ dùng theo nghĩa chứa (súc tích, uẩn súc), mà Hào từ dùng với nghĩa ngăn lại.
Thoán từ
大畜: 利貞, 不家食,吉; 利涉大川.
Đại súc: Lợi trinh, bất gia thực, cát; lợi thiệp đại xuyên.
Dịch: Chứa lớn: Chính đáng (theo chính đạo) thì lợi. Không phải ăn cơm nhà (tức được hưởng lộc của vua), tốt; vượt qua sông lớn (làm việc khó khăn, nguy nan để giúp nước) thì lợi.
Giảng: bên trên là núi, dưới là trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải “chứa” tài đức, nghĩa là tu luyện mang lại tài đức uẩn súc; trước hết phải cương cứng kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết đến đến chỗ đến chốn, làm mang lại đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).
Người nào “uẩn súc” được như vậy thì được quốc gia nuôi, và lúc xã hội gặp khó khăn thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 vào quẻ Càn là trời).
Hào từ
1. 初九.有厲.利已.
Sơ cửu: Hữu lệ, lợi dĩ.
Dịch: Hào 1, dương : có nguy, dừng lại thì lợi.
Giảng: Hào này cưng cửng kiện, muốn tiến lên cơ mà bị hào 4, âm ở trên chặn lại (trong các hào, súc có nghĩa là ngăn chứ ko có nghĩa là chứa), nếu cố tiến thì nguy, ngưng lại thì tốt.
2. 九二: 輿說輹.
Cửu nhị: Dư thoát phúc.
Dịch: Hào 2, dương, như chiếc xe đã tháo cái trục.
Giảng: Hào này cũng bị hào 5, âm, ngăn lại như hào 1, tuy thế vì đắc trung (ở giữa nội quái), đề xuất biết tự chống mình (như tự tháo cái trục xe ra) để thôi ko đi. Như vậy ko có lỗi.
3. 九三: 良馬逐; 利艱貞.日閑輿衛, 利有攸往.
Cửu tam: Lương mã trục; lợi gian trinh,
Nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng.
Dịch: Hào 3, dương : như hai con ngựa tốt chạy đua nhau; phải chịu khó giữ đạo chính thì có lợi, lại phải thường ngày luyện tập, dự bị các đồ hộ thân thì tiến lên mới có lợi.
Giảng: Chúng ta để ý: nhì hào 1, 2 đều là dương cương mà đều bị hai hào âm nhu (4 và 5) phòng cản, vì tuy cương cứng mà ở trong nội quái (quẻ dưới), cũng như các tướng tài năng phải phục tùng Võ Hậu, Từ Hi Thái Hậu. Ko phải thời nào dương cũng thắng âm cả đâu. Tới hào 3 này, may được hào bên trên cùng cũng là dương, ứng với mình như một đồng chí, cho nên vì thế cả nhị hăng hái như hai con ngựa tốt đua nhau chạy; cơ mà hăng quá mà ko nhớ rằng trên đường gặp nhiều gian nan, ko luyện tập đề phòng hàng ngày thì không tiến được xa, bắt buộc Hào từ khuyên như trên.
4. 六四: 童牛之牿, 元吉.
Lục tứ: đồng ngưu đưa ra cốc, nguyên cát.
Dịch: Hào 4, âm: như bé bò mộng còn non, mới nhú sừng, đặt ngay lập tức mảnh gỗ chặn sừng nó, thì rất tốt.
Giảng: trong quẻ Đại súc, hào âm này vẫn phòng chặn được hào 1, dương, vì tuy nó âm nhu, tuy thế hào 1 ở đầu quẻ là dương còn non, như con bò mọng mới nhú sừng, nếu kịp thời ngăn cản ngay, chặn sừng nó lại thì ko tốn công mà có kết quả rất tốt. đại ý là phải đề phòng ngay lập tức từ khi họa mới có mòi phát.
5. 六五: 豶豕之牙, 吉.
Lục ngũ: Phần thỉ đưa ra nha, cát.
Dịch: Hào 5, âm: Như thể chống cái nanh con heo đã thiến thì tốt.
Giảng: Hào 2 là dương đã già giặn, ko non nớt như hào 1, cho nên dữ hơn 1, ví như nanh con heo (rừng). Hào 5 muốn chặn nó, mà chỉ bẻ nanh bé heo thôi thì nó vẫn con hung; tốt hơn hết là thiến nó để mang đến nó hết dữ, lúc đó dù nó còn nanh cũng không xuất xắc cắn nữa. Hào 5, chặn được hào 2 là nhờ cách đó, trừ tận gốc, không tốn công mà kết quả tốt.
6. 上九: 何天之衢, 亨.
Thượng cửu: hà thiên đưa ra cù, hanh.
Dịch: Hào bên trên cùng, dương. Sao mà thông suốt như dương bên trên trời vậy.
Giảng: tới hào này là thời gian cản đã cùng rồi, hết trở ngại, đường thật rộng lớn, bát ngát như đường bên trên trời. Có nghĩa là đại lớn được thi hành.
***
Quẻ này Thoán từ nói về sự súc tích tài đức, mà Hào từ lại xét cách chống cản kẻ hung hãn.
Xem thêm: Thân Nhân Trung Và Câu Nói “ Hiền Tài Là Nguyên Khí Quốc Gia Là Câu Nói Của Ai
Hai hào có ý nghĩa nhất là 4 và 5: muốn ngăn thì phải chống từ khi mới manh nha; và muốn diệt ác thì phải diệt từ gốc, tìm lý do chính mà trừ thì mới không tốn công, kết quả chắc chắn.